Mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn hiến với biết bao vẻ đẹp làm xao động lòng người, từ những vẻ đẹp hết sức bình dị, cổ kính của những ngôi chùa đến những công trình kiến trúc đồ sộ từ lịch sử xa xưa đến nay vẫn còn vẹn nguyên bao giá trị đẹp đẽ của nó. Hà Nội không chỉ là Thủ đô của Việt Nam mà còn là nơi giao thoa, hội nhập của biết bao nền văn hóa khác, nơi in dấu biết bao công trình văn hóa lịch sử mang đậm nét Việt thời xa xưa.
Mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn hiến với biết bao vẻ đẹp làm xao động lòng người, từ những vẻ đẹp hết sức bình dị, cổ kính của những ngôi chùa đến những công trình kiến trúc đồ sộ từ lịch sử xa xưa đến nay vẫn còn vẹn nguyên bao giá trị đẹp đẽ của nó. Hà Nội không chỉ là Thủ đô của Việt Nam mà còn là nơi giao thoa, hội nhập của biết bao nền văn hóa khác, nơi in dấu biết bao công trình văn hóa lịch sử mang đậm nét Việt thời xa xưa.
Nằm giữa lòng Phố Cổ, đền Bạch Mã là "tuyến phòng vệ" trấn giữ phía Đông thành cổ. Được khởi dựng vào thế kỷ thứ 9, đền Bạch Mã được xem là ngôi đền lâu đời nhất của Tứ Trấn. Vị thần được thờ phụng ở đây là thần Long Đỗ (có nghĩa là “rốn rồng”), hay còn gọi là thần Bạch Mã.
Tương truyền rằng khi dời đô về Thăng Long vào năm 1010, Hoàng đế Lý Thái Tổ mở rộng phủ thành nhiều lần nhưng đều bất thành. Đến một ngày, ông bèn cử người đến cầu khấn thần Long Đỗ, rồi đến đêm, ông nằm mộng thấy thần đến chúc mừng và mách đắp thành theo dấu chân của con ngựa trắng bước ra từ đền. Nhà vua đắp thành y lời thần, xây đến đâu chắc đến đấy. Cảm tạ ơn trên, nhà vua đã đổi tên ngôi đền thành Bạch Mã, và phong cho Long Đỗ là Thành hoàng của thành Thăng Long.
Pho tượng Bạch Mã và biểu tượng Mặt Trời trên tấm đệm yên ngựa. Tại Việt Nam và nhiều nền văn hóa khác, việc tôn thờ hướng Đông cũng chính là tôn thờ Mặt Trời.
Ngôi đền có bốn phần chính. Đầu tiên là Phương đình (sân trước) với những cột gỗ lim sơn son thếp vàng. Tiếp theo là Đại bái (đình ngoài) được dành riêng để thờ Bạch Mã, rồi Thiên hương (đình giữa). Cung cấm trong cùng là nơi thờ thần Long Đỗ.
Sân trước và những trạm trổ tinh xảo.
Đền Kim Liên là ngôi đền linh thiêng trấn giữ phía Nam, nơi thờ phượng thần Cao Sơn, một trong 100 người con của thủy tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo chân mẹ lên núi, ông đã giúp Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh để mang lại giang sơn ấm no và thái bình cho người dân.
Lối vào đền Kim Liên với bức hoành phi khảm ba chữ Nho: “Trấn Nam Phương”
So với ba ngôi đền còn lại, đền Kim Liên được cho là hoàn thiện muộn nhất, vào thế kỷ 16-17 từ khi được khởi công sau sự kiện dời đô. Qua thời gian, dân làng Kim Liên xây thêm cổng tam quan cạnh hồ Kim Liên. Nhiều công trình bổ trợ cũng đã được xây dựng và ngôi đền dần kiêm luôn chức năng của một ngôi đình làng.
Ao Kim Liên, nơi gắn liền với câu chuyện "nghề thợ cạo".
Di vật quan trọng nhất của ngôi đền là tấm bia đá "Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh" soạn năm 1510. Bên cạnh đó là hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương được dựng từ triều Hậu Lê đến triều Nguyễn.
Văn bia đá được chạm trổ tinh xảo.
Rất đông du khách và người dân địa phương đến ngôi đền nằm trong Thăng Long tứ trấn này để chiêm bái, cầu may mắn và bình an cho cả năm.
2. Đền Kim Liên trấn giữ phía Nam, thờ thần Cao Sơn Đại Vương
Đền Kim Liên là ngôi đền linh thiêng trấn giữ phía Nam, nơi thờ phượng thần Cao Sơn, một trong 100 người con của thủy tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo chân mẹ lên núi, ông đã giúp Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh để mang lại giang sơn ấm no và thái bình cho người dân.
Cao Sơn Đại vương cũng là vị thần bảo hộ, phụ trợ nhân dân chống lại thiên tai, cường địch, giữ gìn sự bình yên của cuộc sống. Du khách đến trấn phía Nam trong Thăng Long tứ trấn để cầu mọi việc xuôi chèo mát mái.
Theo tín ngưỡng dân gian, thần Cao Sơn là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Sau khi theo mẹ lên núi đã có công trong việc bảo vệ, trấn giữ xua đuổi tà ma cho dân chúng phía Nam thành Thăng Long.
Sau đó, ngài xin vua cha về vùng đất hoang vu lập nghiệp (nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Với mong muốn ghi nhớ công ơn, sau khi ngài mất, nhân dân đã lập đền để thờ thần Cao Sơn. Theo văn bản cổ nhất có niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1510) có ghi tên di tích “Cao Sơn Đại Vương Thần Từ”.
So với ba ngôi đền còn lại, đền Kim Liên được cho là hoàn thiện muộn nhất, vào thế kỷ 16-17 từ khi được khởi công sau sự kiện dời đô. Qua thời gian, dân làng Kim Liên xây thêm cổng tam quan cạnh hồ Kim Liên. Nhiều công trình bổ trợ cũng đã được xây dựng và ngôi đền dần kiêm luôn chức năng của một ngôi đình làng.
Cổng đình và cửa chính của chính điện đều quay mặt về hướng Tây. Kiến trúc của đình gồm hai phần: phần trước gò có cổng cột, hai gian hai bên sân gạch rộng rãi và kiến trúc chính của di tích nằm ở khuôn viên.
Đình chính gồm: Nghi môn, Đại bái, Hậu cung. Nghi môn là ngôi nhà ba gian. Từ ngoài vào trong có cột cổng, đỉnh cột đặt gạch gốm úp vào nhau, bên dưới treo đèn lồng, trong có tứ linh được chạm khắc khéo léo, tinh xảo.
Kiến trúc chính của khu di tích gồm ba cổng, một ngôi đền thờ thần. Đi hết thềm, bạn sẽ qua chín bậc gạch cao xây bằng gạch lớn thời Lê Trung Hưng, nối kiến trúc ngoài trời với kiến trúc chính. Hai bên bậc tam cấp, sát sân gạch có hai con cá sấu đá có từ thời Lê. Hết bậc tam cấp là ba lối vào đền Cao Sơn.
Tọa lạc bên cạnh Hồ Tây, đền Quán Thánh là ngôi đền mang nhiệm vụ trấn giữ phương Bắc. Đây là nơi thờ phượng Huyền Thiên Trấn Vũ, một vị thần quan trọng trong Đạo giáo, tượng trưng sao Bắc Cực.
Truyền thuyết kể rằng ngày xưa, có một con hồ ly chín đuôi hay đi gieo rắc tai họa cho người dân. Thần Trấn Vũ phải giáng trần tiêu diệt hồ ly để thiết lập lại hòa bình. Mảnh đất chôn xác hồ ly bỗng lung chuyển thành vùng trũng và trở thành Hồ Tây ngày nay; đây cũng là lý do hồ còn có tên gọi là đầm "Xác Cáo."
Bàn thờ thần với một bài thơ thời Đường ở phía sau.
Ngôi đền hiện nơi lưu trữ nhiều tác phẩm nghệ thuật xưa, trong đó có 40 bài thơ Đường được khắc gỗ niên đại từ thế kỷ thứ 7. Ngoài ra còn có một bức phù điêu đồng miêu tả cảnh Tam giới: Thiên-Địa-Thuỷ.
Bức chạm khắc từ đồng treo trên xà nhà
Linh hồn của ngôi đền chính là bức tượng Huyền Thiên Trấn Vũ bằng đồng cao 3.96 mét và nặng 4 tấn được đặt ở bàn thờ chính. Theo truyền thuyết, bức tượng này thể hiện rõ nét vị thần Đạo giáo khi ngài đã đắc đạo.
Là nơi ngự của một vị võ thần với sức mạnh vô song, có lẽ không có gì ngạc nhiên khi ngôi đền còn có chức năng khác là võ đường. Các võ sinh thường đến đây luyện tập vào buổi chiều.
Các võ sinh luyện tập trong khuôn viên đền Quán Thánh.
Nghìn năm đã qua từ khi vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô về Thăng Long, nhưng ý nghĩa văn hóa và lịch sử của Tứ Trấn vẫn còn vẹn nguyên. Bởi vững chãi thêm qua những lời truyền tụng nhân dân, bốn ngôi đền tiếp tục trấn giữ thủ đô trước những biến chuyển của thời gian.
Trong Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô), Hoàng đế Lý Thái Tổ đã miêu tả Đại La (Thăng Long) là nơi “ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước.” Ông cho rằng một nơi như vậy ắt sẽ mang lại thái bình và thịnh vượng, nên phải được bảo vệ một cách linh thiêng.
Thăng Long tứ trấn là bốn ngôi đền phục vụ cho việc thờ cúng bốn vị thần trấn giữ tứ phương của thành, được xây dựng ở 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Trong đó, đền Bạch Mã trấn giữa phía Đông, đền Voi Phục trấn ở phía Tây, đền Quán Thánh trấn yểm phía Bắc, đền Kim Liên trấn ở phía Nam.
1. Đền Bạch Mã - "Trấn Đông thành Thăng Long", thờ thần Long Đỗ
Nằm giữa lòng Phố Cổ, đền Bạch Mã là "tuyến phòng vệ" trấn giữ phía Đông thành cổ. Được khởi dựng vào thế kỷ thứ 9, đền Bạch Mã được xem là ngôi đền lâu đời nhất của Tứ Trấn. Vị thần được thờ phụng ở đây là thần Long Đỗ (có nghĩa là “rốn rồng”), hay còn gọi là thần Bạch Mã.
Tương truyền khi vua Lý Thái Tổ dời đô đến Đại La đổi tên thành kinh đô Thăng Long, vua đã cho xây dựng và đắp thành, nhưng đắp đến đâu thành đổ đến đó. Vua liền sai người tới đây cầu lễ, vừa khấn xong thì thấy ngựa trắng trong đền đi ra, đi một vòng từ đông sang tây, đi đến đâu để lại dấu chân đến đó.
Thấy vậy, vua sai người đắp thành theo dấu chân ngựa, quả nhiên thành đắp xong vững chãi. Từ đó, nhà vua cho tu sửa lại ngôi đền và phong thần Long Đỗ làm "Thành hoàng Quốc đô Thăng Long", và gọi tên ngôi đền là "Bạch Mã linh từ".
Trải qua những thăng trầm lịch sử, đền Bạch Mã (nằm trong Thăng Long tứ trấn) đã được trùng tu nhiều lần nhưng vẫn giữ được cảnh quan uy nghiêm và dấu tích cổ hiếm thấy. Ngôi đền mang giá trị văn hóa lịch sử đặc biệt và là một trong những di tích kiến trúc tiêu biểu của Thủ đô.